Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Hàn Dũ
bàn soạn 盤饌
◎ Nôm: 盤𲋝
dt. cổ bàn, [Vương Lộc 2001: 8], mâm tiệc, bàn soạn gọi gộp từ bàn thịnh hào soạn 盤盛肴饌 (mâm cao cỗ đầy). Hàn Dũ đời Đường có câu: “trường an lắm trọc phú, cỗ cao đầy thịt mỡ” (長安眾富兒,盤饌羅羶葷 trường an chúng phú nhi, bàn soạn la chiên huân). Đi nào kẻ cấm buồng the kín, ăn đợi ai làm bàn soạn đầy. (Miêu 251.6).
bá nhạc 伯樂
(680-610 tcn)
dt. nguyên tên là tôn dương 孫陽, người thời Xuân Thu, nước Kỳ Cáo 期郜 (nay huyện vũ thành tỉnh sơn đông). Ông là người rất giỏi luyện ngựa, được tần mục công tin dùng, được phong làm bá nhạc tướng quân 伯樂將軍. Bá nhạc sau này đem tất cả kinh nghiệm luyện ngựa của mình viết thành cuốn bá nhạc tướng mã kinh 伯樂相馬經. Sách ngoài phần văn còn có nhiều hình minh hoạ, đây được coi là bộ sách đặt nền móng cho ngành tướng mã học cổ đại, có ảnh hưởng rất lớn đến đời sau. Sách này đã mất, chỉ thấy được nhắc đến trong một số sách như tân đường thư 新唐書, triều dã thiêm tải 朝野僉載, nghệ lâm phạt sơn 藝林伐山. Sách Lã Thị Xuân Thu thiên Tinh thông viết: “tôn dương học về tướng mã, sở kiến không gì ngoài những tri thức về ngựa, nên đã thành tựu về loài ngựa” (孫陽學相馬,所見無非馬者,誠乎馬也). Hàn Dũ trong mã thuyết viết: “đời có bá nhạc rồi mới có thiên lý mã. Thiên lý mã sau thì đời nào cũng có, nhưng bá nhạc thì không” (世有伯樂,然后有千里馬.千里馬常有,而伯樂不常有). Bà ngựa dầu lành, nào bá nhạc, cái gươm nhẫn có, thiếu Trương Hoa. (Tự thuật 114.3).
chín khúc 𠃩曲
dt. dịch chữ cửu uyển. Uyển: đơn vị đo ruộng đất thời xưa, các thuyết không chính xác, hoặc 12 mẫu một uyển hoặc 30 mẫu là một uyển [Khang Hy]. Khuất Nguyên trong ly tao có câu: “Ta đà tưới chín uyển lan chừ, lại trồng huệ hơn trăm mẫu.” (余既滋蘭之九畹兮, 又樹蕙之百畝 dư ký tư lan chi cửu uyển hề, hựu thụ huệ chi bách mẫu). Hàn Dũ trong bài Hợp giang đình có câu: “Trồng lan đầy chín uyển, giâm trúc quá vạn cành.” (樹蘭盈九畹,栽竹逾萬个 thụ lan doanh cửu uyển, tài trúc du vạn cá). Lan còn chín khúc, cúc ba đường, quê cũ chẳng về nỡ để hoang. (Tự thuật 117.1).
quần đỏ 裙堵
dt. đồ mặc ở thân dưới của phụ nữ, dịch chữ hồng quần, sau trỏ chung mỹ nữ. Hàn Dũ trong bài Tuý tặng trương mật thư có câu: “Chăng giải cuộc say chữ nghĩa, chỉ riêng say đám hồng quần.” (不解文字飲,惟能醉紅裙 bất giải văn tự ẩm, duy năng tuý hồng quần). Ngày chầy điểm đã phong quần đỏ. Rỡ tư mùa một thức xuân (Trường an 246.3).
thông 通
tt. <từ cổ> đủ hết, đủ cả. Hàn Dũ trong bài Sư Thuyết có câu: “Thích cổ văn, lục nghệ và kinh truyện, đều rèn luyện đủ hết cả những món ấy.” (好古文六藝經傳皆通習之). Nào thông nhiều lạ ← 何足多怪 (Truyền Kỳ Mạn Lục). Ai có của thông phòng thết khách, một ao niễng niễng mấy đòng đòng. (Thuật hứng 56.7)‖ Có của hằng cho lại có thông, tích nhiều con cháu nọ trông. (Bảo kính 130.1). đng no, đủ, nhẻ.
tăm 沁
◎ Nôm: 沁 Đọc âm PHV. AHV: tấm. Nghĩa gốc là “dùng vật ném xuống nước để thăm dò độ nông sâu”. Hàn Dũ có thơ rằng: “nghĩa thuỷ tuy rất gần, nhưng trộm cướp chẳng dám xuống” (義泉雖至近,盜索不敢沁) chú rằng: “người phương bắc lấy vật ném xuống nước gọi là tấm” (北人以物探水爲沁). Ý nói rằng, nhìn tăm nước để ước lượng độ sâu. Như vậy, tăm gốc Hán, bóng, bột gốc Việt.
dt. HVVD bong bóng nhỏ. Hang thỏ trầm tăm Hải Nhược, nhà giao dãi bóng thiềm cung. (Thuỷ thiên nhất sắc 213.3).
đứa 丁
◎ Nôm: 打 / 𠀲 Phiên khác: đánh thơ: dịch chữ “chiến thi” của Hàn Dũ (TVG, ĐDA). Nay theo VVK. Xét, chữ “丁” AHV là “đinh”, âm THV Việt hoá là “đứa” < đá (THV). Âm “đá” này làm thanh phù cho “打” (đả), nguyên âm -a- còn bảo lưu trong âm THV “đánh”. Hoặc, âm “đảnh”/ đỉnh (頂), “đanh”/ “đinh” (釘). Vả lại, chữ Nôm luôn dùng 丁 làm thanh phù. Đối ứng dɯa³ (Mường) [VĐ Nghiệu 2011: 57].
dt. <từ cổ> dân đinh, người đã đủ tuổi để gánh vác việc thuế dịch thời xưa. Vào tiếng Việt, ngữ tố này mới trở thành loại từ chỉ người. Miệt bả hài gai khăn gốc, xênh xang làm mỗ đứa thôn nhân. (Mạn thuật 33.8)‖ (Bảo kính 148.8)‖ Thế những cười ta rằng đứa thơ, dại hoà vụng nết lừ cừ. (Tự thán 90.1, 95.7, 102.4). Công danh mảng đắm, ấy toàn những đứa ngây thơ (Trần Nhân Tông - Cư Trần Lạc Đạo Phú).